Rừng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua sự phát triển bền vững

Bên cạnh những nỗ lực khai thác tiềm năng và lợi thế hiện có của rừng thông qua kế hoạch và phát triển chiến lược, các địa phương trên khắp Việt Nam đang tăng cường các sáng kiến bảo vệ rừng. Đây được xem là một chìa khóa quan trọng để xây dựng một nền kinh tế rừng ổn định và bền vững.

Hơn năm năm kể từ khi thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TW của Ban thư ký của Đảng, nhằm củng cố sự lãnh đạo của đảng trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đã có một sự thay đổi đáng kể trong nhận thức ở tất cả các cấp độ của xã hội về vai trò và tầm quan trọng của tài nguyên rừng và ngành lâm nghiệp.

Về mặt kinh tế, cấu trúc sản xuất lâm nghiệp đã được định hình lại để tăng giá trị trong chuỗi sản xuất lâm nghiệp. Điều này được phản ánh trong các chỉ số như cấu trúc của khu vực sản xuất rừng, xã hội hóa đầu tư, huy động tài nguyên và các sản phẩm lâm nghiệp. Giá trị sản xuất lâm nghiệp đã duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định hàng năm từ 5,5 đến 6%.

Năm 2022, xuất khẩu gỗ và các sản phẩm rừng phi gỗ vượt quá 17,9 tỷ USD. Doanh thu từ các dịch vụ môi trường rừng đạt trung bình khoảng 126 triệu USD mỗi năm, trở thành một nguồn tài chính thiết yếu và bền vững cho ngành lâm nghiệp.

Ngành rừng sản xuất đã phát triển cả về diện tích và chất lượng, cung cấp hơn 70% gỗ thô để chế biến, cả về tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự tham gia của Việt Nam vào chuỗi giá trị sản phẩm rừng toàn cầu đã tăng đều đặn.

Doanh thu xuất khẩu vẫn cao và ổn định, trong khi thu nhập từ các dịch vụ môi trường rừng tiếp tục là một trụ cột bền vững để phát triển lâm nghiệp.

Theo Tổng Giám đốc Chính quyền Lâm nghiệp Việt Nam, Tran Quang Bao, mặc dù có những lợi ích này, giá trị hệ sinh thái của các khu rừng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Chúng bao gồm sự vắng mặt của phân vùng chuyên dụng cho các đồn điền gỗ lớn, giá trị hạn chế được tạo ra từ các khu vực trồng hiện tại và thiếu tổ chức sản xuất dựa trên chuỗi.

Cũng không có quy định về quyền sở hữu hoặc đo lường rừng carbon, khoảng cách quy định trong phát triển cơ sở hạ tầng dựa trên rừng cho du lịch và dịch vụ, và không đủ bồi thường so với giá trị hệ sinh thái rừng. Hơn nữa, các cuộc khảo sát quốc gia về các mô hình kinh tế rừng còn thiếu, và các chính sách hiện tại cản trở sự hợp tác phải được xem xét và cập nhật.

Phát triển rừng không được dựa vào một phương pháp tiếp cận ngành duy nhất mà thay vào đó áp dụng các chiến lược tích hợp, đa ngành và đa chức năng để mở khóa giá trị lớn hơn.

Một giới hạn khác là địa hình đầy thách thức và cơ sở hạ tầng giao thông kém. Ở các tỉnh như Son LA, Dien Bien, Lai Chau, Ha Giang và Cao Bang, việc tiếp cận khó khăn đã ngăn chặn đầu tư lớn vào xử lý sản phẩm rừng có giá trị cao, phân phối sản phẩm cản trở và tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh.

Cơ sở hạ tầng kém cũng cản trở việc tuyển dụng lao động lành nghề cho các cơ sở xử lý nông nghiệp và lâm nghiệp hiện đại và phát triển du lịch sinh thái. Hơn nữa, việc thiếu các khu vực nguyên liệu thô có kế hoạch và có thể mở rộng vẫn là một rào cản lớn đối với tăng trưởng kinh tế rừng.

Mặc dù một số khu vực đồn điền tập trung đã được thành lập ở các tỉnh được ưu đãi cơ sở hạ tầng như Phu Tho, Tuyen Quang, Yen Bai, Lao Cai và Quang Ninh, các khu vực này chủ yếu sản xuất gỗ có đường kính nhỏ, không lý tưởng cho sản xuất gỗ cao cấp. Các sản phẩm rừng phi gỗ, đặc biệt là các nhà máy thuốc, vẫn được trồng trong các hoạt động rải rác, có khối lượng lớn với công suất thương mại quy mô lớn hạn chế.

Nền kinh tế rừng ở nhiều địa phương cũng phải đối mặt với sự thiếu hụt các cơ sở chế biến, cả về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng đến tiêu thụ nguyên liệu thô và tăng cường giá trị sản phẩm. Hiện tại, các tỉnh miền bắc và miền núi chỉ có 747 doanh nghiệp chế biến sản phẩm rừng, chiếm 12.7% tổng số quốc gia, chủ yếu tập trung ở Phu Tho, Quang Ninh, Yen Bai và Bac Giang. Thu hút các doanh nghiệp có vốn và năng lực công nghệ mạnh mẽ để xử lý và phân phối vẫn là một thách thức đáng kể.

Một trở ngại quan trọng là thiếu liên kết hiệu quả và sản xuất dựa trên chuỗi từ việc trồng và thu hoạch đến xử lý và phân phối. Sản xuất lâm nghiệp vẫn bị phân mảnh và quy mô nhỏ, gây khó khăn cho việc thiết lập các khu vực sản xuất hàng hóa lớn. Công nghệ xử lý sau thu hoạch vẫn là cơ bản, dẫn đến giá trị gia tăng thấp.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Le Minh Hoan, nhấn mạnh rằng "Chúng ta phải trả nợ cho thiên nhiên " bằng cách bảo vệ rừng một cách hiệu quả. Dựa trên tiềm năng và lợi thế hiện có, các địa phương có rừng phải phát triển kịp thời các định hướng chiến lược cho nền kinh tế rừng ổn định và bền vững.

Bản lề lâm nghiệp bền vững về quản lý và sử dụng tài nguyên rừng hiệu quả, cân bằng các mục tiêu kinh tế xã hội với bảo vệ môi trường và tận dụng lợi thế khí hậu và đất đai khu vực.

Phát triển và sử dụng rừng phải tuân theo phương pháp đa chức năng, đa giá trị phù hợp với tiềm năng cụ thể của các tiểu vùng và địa phương. Các mô hình tăng trưởng nên chuyển từ mở rộng diện tích sang tăng cường năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.

Việt Nam hiện đang thúc đẩy phát triển rừng đa dụng và tham gia vào các thỏa thuận giảm phát thải. Vào ngày 22 tháng 10 năm 2020, Thỏa thuận thanh toán giảm phát thải (ERPA) cho khu vực Bắc Trung Bộ đã được ký kết giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), Người được ủy thác cho Cơ sở Đối tác Forest Carbon (FCPF).

Theo Thỏa thuận này, Bộ đại diện cho quyền sở hữu, quản lý và chuyển 10,3 triệu tấn CO2 trong việc giảm phát thải từ các khu rừng tự nhiên ở sáu tỉnh phía bắc trung tâm. Chuyển khoản này dự kiến sẽ tạo ra khoảng 51,5 triệu USD. Thỏa thuận đã được thể chế hóa theo Nghị định số 107/2022/ND-CP về giảm phát thải thí điểm và quản lý tài chính của ERPA.

Rừng cung cấp gỗ, các sản phẩm phi thời gian, dịch vụ môi trường, du lịch và các nguồn thu nhập khác cho khoảng 25 triệu người Việt Nam phụ thuộc vào hệ sinh thái rừng. Phát triển nền kinh tế dựa trên rừng đã trở thành một mục tiêu quan trọng đòi hỏi lập kế hoạch chiến lược ở cấp địa phương.

Sau năm năm thực thi chính sách của chính phủ về việc đóng cửa rừng tự nhiên, nhiều tỉnh đã đưa ra các biện pháp hiệu quả để cải thiện sinh kế của các cộng đồng phụ thuộc vào rừng, góp phần phát triển kinh tế và bảo vệ rừng bền vững.

Trong xã con Linh Son, Quận Son Son (NGHE AN), hơn 90% các hộ gia đình dựa vào trồng trọt trà, với tổng diện tích trà của xã hội vượt quá 430 ha. Con trai của Linh và con trai Cao là hai xã miền núi với các khu vực trồng trà lớn nhất trong quận, với tổng số hơn 2.200 ha, phần lớn trong các khu vực đệm rừng. Cùng với các loại cây trồng và vật nuôi khác được nuôi dưới tán rừng, trà được chính quyền địa phương coi là cây trồng quan trọng để giảm nghèo.

Trồng trà tạo ra gần 840.000 USD hàng năm cho nông dân địa phương. Tại quận Cuong, nơi có Công viên quốc gia Pù Mát {1.

Với diện tích cốt lõi 94.804 ha và vùng đệm 86.000 ha, khu rừng cung cấp sinh kế cho hàng ngàn hộ dân tộc Dan Lai, Thái và HOA và HOA. Du lịch cộng đồng, canh tác rừng, nuôi vật nuôi và nuôi trồng thủy sản trong các khu vực đệm cung cấp thu nhập ổn định và bền vững cho cư dân gắn liền với rừng.

ở Hamlet 5, Xô Son Son, Quận Linh Quan (Dong Nai), Người Anh cả Dân tộc thiểu số Dieu Thi Ut Lan của người Cho Ro đã chia sẻ rằng các chính sách phân bổ đất đai và rừng gần đây đã cải thiện đáng kể cuộc sống của nông dân. Hiện tại, 120 hộ gia đình ở Hamlet được ký hợp đồng bởi công ty một thành viên LAD Lâm nghiệp giới hạn để quản lý hơn 70 ha đất rừng sản xuất. Mỗi ha mang đến khoản thanh toán hàng năm là 210 USD và khoảng 84 USD tiền lương lao động để chăm sóc rừng.

Trước khi đóng cửa rừng tự nhiên bang bang, nhiều cư dân đã sống sau khi săn bắn và khai thác rừng. Giờ đây, họ kiếm được từ bảo vệ rừng và các hoạt động kinh tế dưới xe như trồng thuốc và chăn nuôi, dẫn đến những cải thiện rõ rệt về mức sống. Cư dân Cho Ro hiện có những ngôi nhà mạnh mẽ, tiếp cận giáo dục và cơ sở hạ tầng mở rộng, nhờ vào đầu tư của chính phủ và kinh doanh.

Ở các tỉnh miền núi phía bắc, nền kinh tế rừng đã mang lại thu nhập cao cho các hộ gia đình phụ thuộc vào rừng. Ở tỉnh Son LA, có những mô hình trồng trọt amomum ở xã Pung Banh (quận Cop Cop), Muong Giang và Muong Gion (Quận Quận NHAI), mang lại 630 USD đến 1,260 USD mỗi ha hàng năm.

Các dự án bao gồm canh tác sả để khai thác tinh dầu trong xã PI Toong (quận Muong LA), các khu vực trà dược liệu và Hibiscus ở Chieng den và Ching Co (Son La City), và các trang trại dược liệu và chế biến

Tỉnh Hoa Bình có nhiều mô hình chăn nuôi thành công dưới tán rừng. Ví dụ, ở Dong Noi Hamlet, Dong Tam xã, quận Lac Thuy, Nguyen Van Hoat đã nuôi gà dưới tán rừng kể từ năm 2015. Anh ta hiện có hơn 5.000 con gà, bao gồm 2.000 người gây giống, tạo ra thu nhập ròng hàng năm từ 8.400 USD đến 12.600 USD 12.600.

Trong SEO Hamlet, Cao Son Cổ xã, Quận Da Bac, người nuôi ong Khuong Manh Thu đã bắt đầu với 10 tổ ong và hiện quản lý 70. Năm 2022, gia đình ông đã bán hơn 70 thuộc địa ong và 400 lít mật ong, kiếm được hơn 4.200 USD. Ông cũng chia sẻ các chủng ong và kỹ thuật nuôi ong với các địa phương khác.

ở tỉnh Dien Bien, nhận thức và trách nhiệm cộng đồng đối với quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã được cải thiện đáng kể. Tỉnh hiện có hơn 900 ha cây trồng không gỗ, với khoảng 500 ha cây thuốc dưới tán rừng, mang lại khoảng 400 tấn hàng năm trị giá 680.000 USD. Hầu hết các khu vực này tập trung ở các quận Tây Nguyên như Nam Po, Tuân Giao và Muong NHE.

Theo Tran Quang Bao, khoảng 25 triệu người Việt Nam phụ thuộc vào rừng. Trong số đó, 1,15 triệu hộ gia đình và cộng đồng quản lý 4,1 triệu ha, 136 công ty lâm nghiệp quản lý 1,7 triệu ha, 383 ban bảo tồn quản lý 5,2 triệu ha, 24.284 nhân viên bảo vệ rừng được sử dụng trên toàn quốc và 6.234 doanh nghiệp chế biến sản phẩm rừng sử dụng trên 500.000 người làm việc.

Rừng cung cấp 31 triệu mét khối gỗ thô, đáp ứng 75,6% nhu cầu sản xuất, với xuất khẩu sản phẩm rừng hàng năm trung bình 17 tỷ USD. Việt Nam cũng có khoảng 2,6 triệu ha sản phẩm rừng phi gỗ, xuất khẩu trên 500 triệu USD hàng năm.

Ngoài ra, các hoạt động du lịch tạo ra khoảng 12,6 triệu USD mỗi năm, các dịch vụ môi trường rừng mang lại 54,6 triệu USD hàng năm và các dịch vụ lưu trữ và hấp thụ carbon rừng là một đóng góp lớn mới nổi, với doanh thu trung bình hàng năm đạt 168 triệu USD.

Nhan Dan

Trang chủ:
Trang Sau:Không còn nữa

Xem ngẫu nhiên